[Discovery] Sơ lược lịch sử phát triển 80 năm của đồng hồ thông minh


BANNER_Apple_Watch_1.

Thời gian gần đây, sự ra mắt của hàng loạt đồng hồ thông minh từ nhiều hãng công nghệ luôn nhận được sự chú ý của những người yêu công nghệ. Nhưng liệu khái niệm đồng hồ thông minh có thật sự mới? Bạn có biết rằng chiếc đồng hồ thông minh đầu tiên đã xuất hiện cách đây gần 80? Thời gian đầu, những chiếc đồng hồ “thông minh” ra sao? Bài viết này sẽ ngược dòng thời gian nhằm tìm lời giải đáp cho những câu hỏi đó.

Trên thực tế, ý tưởng thiết bị hiện đại đeo trên cổ tay không phải là một ý tưởng mới lạ. Tuy nhiên, nếu mở rộng khái niệm như thế nào là “thông minh” thì đồng hồ thông minh cũng có bề dày lịch sử với sự tham gia của nhiều hãng, nhiều mẫu mã khác nhau. Ở góc độ bài viết này, chúng ta sẽ đi tìm những chiếc đồng hồ, ngoài khả năng xác định thời gian ra, thì nó còn có thêm tính năng tính toán, lưu trữ dữ liệu, lên kế hoạch, có khả năng chạy các đoạn mã lập trình, phát nhạc (không phải là báo thức) và có thể là chơi được cả file video hoặc thu/phát tín hiệu radio.” Ngoài ra, những thiết bị khác, bao gồm cả những thiết bị có hình thức giống đồng hồ, nhưng không được dùng để đeo thì sẽ không được liệt kê ra ở bài viết này.

Tóm tắt các sự kiện đáng chú ý trong quá trình phát triển đồng hồ thông minh
Screen Shot 2014-09-15 at 14.06.16.

Những năm 1940 đến đầu 1980: Giai đoạn đầu với tính năng thực hiện phép tính và giải trí

mimologa.
Mimo-Loga, chiếc đồng hồ “thông minh” đầu tiên ra đời năm 1940​

Với các tiêu chí được đặt ra ở trên, chiếc đồng hồ thông minh đầu tiên là Mimo-Loga được giới thiệu tại miền La Chaux-de-Fonds, Thụy Sĩ vào năm 1940. Mimo Loga được trang bị thêm 2 vòng có thể xoay được, chứa thang đo logarit ở viền mặt đồng hồ cho phép người đeo có thể thực hiện các phép tính đơn giản. Dù đây chỉ là đồng hồ cơ khí bình thường và không có sự hỗ trợ của điện từ nhưng đây được xem là chiếc đồng hồ đầu tiên có khả năng tính toán. Mimo Loga nhanh chóng được sự đón nhận của người dùng và trở thành một tiêu chuẩn của các đồng hồ cơ dành cho phi công.

Vài tuần sau đó, dựa trên ý tưởng trên, hãng đồng hồ nổi tiếng tại Thụy Sĩ, Breitling chính thức nhận được bằng sáng chế cho thiết kế đồng hồ đo thời gian (chronograph) dùng để đo khoảng thời gian của một sự kiện nào đó. Trong tiếng Hy Lạp, 2 từ “chronos” và “graph” có nghĩa là “thời gian” và “ghi, viết.” Đây là tính năng trên đồng hồ cơ và không được xem như một chức năng “thông minh” do các thao tác tính toán đều được người đeo thực hiện bằng tay và về cơ bản, các thang đo, quy tắc trên mặt đồng hồ chỉ là một bảng tra cứu. Tuy nhiên, tính năng đo thời gian cũng có ảnh hưởng đến lịch sử của đòng hồ thông minh do đây là tiền đề cho sự ra đời của những chiếc đồng hồ có trang bị máy tính điện tử.

smartwatch_03-100025797-gallery.
Pulsar và Pulsar Calcron, chiếc đồng hồ thông minh với màn hình LED và phím hỗ trợ chức năng tính toán các phép tính đơn giản​

Mùa thu năm 1972, công ty Hamilton Pulsar (thương hiệu đồng hồ đến từ Mỹ, một bộ phận của Tập đoàn Seiko) chính thức giới thiệu nguyên mẫu đồng hồ LED. Đây là chiếc đồng hồ điện tử đầu tiên trên thế giới hiển thị thời gian dưới dạng kỹ thuật số. Vào thời điểm bấy giờ, 1 chiếc đồng hồ LED Pulsar làm bằng vàng 18k có giá bán là 2100 đô la Mỹ. Tuy nhiên, một thiết bị đeo trên cổ tay được gọi là “thông minh” lại là Calcron, được hãng Pulsar giới thiệu vào năm 1975. Về cơ bản, Calcron là một chiếc máy tính điện tử đeo trên cổ tay cho phép người dùng thực hiện các phép tính đơn giản như cộng trừ nhân chia, tính phần trăm. Tuy nhiên, người dùng phải sử dụng một cây bút nhỏ để bấm vào các nút bấm được bố trí chìm dưới bề mặt đồng hồ để nhập các lệnh tính toán. Đồng thời, dù mang tên là đồng hồ nhưng Calcron không có khả năng xem giờ mà màn hình được dùng toàn bộ để thực hiển thị các con số tính toán.

uranus.
Đồng hồ Uranus, cũng hỗ trợ thực hiện phép tính nhưng các phím số được bố trí thuận tiện hơn​

Một nhà sản xuất khác cũng đã phát triển thành công đồng hồ hỗ trợ máy tính điện tử là Uranus. Tương tự như Calcron, mẫu đồng hồ của Uranus cũng có hỗ trợ thực hiện các phép tính đơn giản nhưng các nút bấm được bố trính lồi lên xung quanh màn hình nhằm thuận tiện hơn trong quá trình sử dụng. Vào năm 1977, hãng HP chính thức giới thiệu HP-01, mẫu đồng hồ hỗ trợ việc đếm thời gian, tính toán và đồng hồ bấm giờ. HP-01 được xem là mẫu đồng hồ “thông minh” nhất từng được sản xuất tính đến thời điểm bấy giờ.

seiko-c153.
Đồng hồ Seiko C153 ra đời năm 1977 với đầy đủ các chức năng tính toán và hỗ trợ màn hình 3 dòng để hiển thị thông tin​

Tuy nhiên, không lâu sau khi ra đời, các thế hệ đồng hồ LED đã nhanh chóng bộc lộ khuyết điểm là tiêu thụ quá nhiều năng lượng và đa số cũng không có chức năng xem giờ. Trước tình hình đó, các hãng từ Nhật Bản chẳng những đã nhanh chóng giải quyết được vấn đề bằng công nghệ LED thế hệ mới mà còn bổ sung thêm một số tính năng giúp đồng hồ trở nên “thông minh” hơn. Năm 1977, hãng Seiko giới thiệu mẫu đồng hồ Seiko C153 có đầy đủ chức năng của một máy tính khoa học phổ thông với 3 dòng thông tin trên màn hình. Tiếp theo đó là những chiếc đồng hồ tương tự như Citizen 49-9421 cal. 9140A hay nhiều mẫu đồng hồ của Casio.

ultra-raro-casio-game-gm-30-de-1980-10-20-30-40-301-401-14528-MLB198687801_9751-O.
Mẫu đồng hồ Casio-Game 30 hỗ trợ chơi các trò chơi đơn giản​

Vào năm 1980, Casio chính thức giới thiệu chiếc đồng hồ Casio Game-10, Game-30,… có hỗ trợ những trò chơi đơn giản trên màn hình. Thậm chí trong những năm 1980, Casio còn giới thiệu các mẫu đồng hồ “thông minh” hơn, có hỗ trợ chức năng nghe nhạc (chỉ là những đoạn nhạc chuông đơn giản) như mẫu Casio M-14 vào năm 1986 hoặc mẫu Casio TM-100 cho phép truyền tải âm thanh qua sóng Radio vào năm 1987. TM-100 được tích hợp một cái anten, microphone cho phép truyền âm thanh thu được từ đồng hồ tới các máy thu sóng FM gần đó.

casio-tm-100-4.
Đồnh hồ Casio TM-100 cho phép truyền tải âm thanh qua sóng Radio ra đời vào năm 1987​

Tuy nhiên, tất cả những mẫu đồng hồ trong giai đoạn này đều chưa thật sự thông minh do các chức năng đều gói gọn bên trong chiếc đồng hồ. Nó vẫn chưa có khả năng thông tin liên lạc, chỉ cho phép sử dụng những chức năng có sẵn và người dùng chưa thể lưu trữ các dữ liệu cần thiết. Và dĩ nhiên, giai đoạn tiếp theo vào cuối những năm 1980, đầu 1990 thì những chiếc đồng hồ chắc chắn sẽ “thông minh” hơn nữa.

Từ 1980 đến cuối những năm 1990 : Lưu trữ dữ liệu, lập trình, đa phương tiện và truyền thông

Nếu như cho đến cuối những năm 1970, đầu những năm 1980, đồng hồ đã có thể nghe những âm thanh có giai điệu đơn giản, chơi một số trò chơi, hỗ trợ tính toán khoa học,… nhưng nó vẫn chưa thể thật sự thông minh. Tất cả những gì người dùng có thể làm là thao tác với những gì được nhà sản xuất cài sẵn và sau đó lại trở lại màn hình xem giờ bình thường. Tuy nhiên, đối với các hãng điện tử Nhật Bản thì cuộc chơi chỉ mới bắt đầu.

seiko_409.
Nguyên mẫu đồng hồ Seiko D409, lần đầu tiên có khả năng lưu trữ dữ liệu dung lượng 112 byte, khơi mào cho sự phát triển của các đồng hồ lưu dữ liệu (databank)​

Vào năm 1982, Seiko chính thức giới thiệu nguyên mẫu đồng hồ D409 có tích hợp bộ nhớ lưu trữ dữ liệu. D409 chỉ có bộ nhớ dung lượng 112 bytes và chỉ cho phép người dùng lưu thông tin vào mục “ghi nhớ” trên đồng hồ. Tính năng “ngân hàng dữ liệu” (databank) nhanh chóng được các hãng đồng hồ khác chú ý và tích hợp vào trong các mẫu đồng hồ sau đó. Thậm chí, một số đồng hồ còn đi kèm với một bàn phím rời cho phép người dùng nhập dữ liệu thuận tiện hơn. Dù vậy, các đồng hồ databank chỉ có chức năng lưu trữ, hiển thị thông tin và tính năng này vẫn chưa hoạt động thật sự hữu hiệu.

seiko-TV-watch-1-1600-WP.
Seiko TV Watch ra mắt vào năm 1982 đi kèm với phụ kiện thu sóng truyền hình cho phép xem TV ngay trên màn hình​

Một số mẫu đồng hồ đáng chú ý trong giai đoạn này còn có khả năng trình chiếu đa phương tiện. Điển hình như mẫu đồng hồ TV Watch của Seiko ra mắt vào năm 1982 với khả năng xem TV ngay trên màn hình. Dù vậy, màn hình của mẫu đồng hồ này có độ tương phản quá kém và người dùng còn phải trang bị thêm phụ kiện kèm theo để có thể nhận được tín hiệu TV. Tuy khá bất tiện trong việc sử dụng, nhưng mẫu đồng hồ có khả năng xem TV cũng đã tạo nên một trào lưu mới về đồng hồ thông minh ở giai đoạn này.

Nhiều hạn chế về công nghệ màn hình LCD đã khiến các hãng dần từ bỏ việc trang bị màn hình trên đồng hồ thông minh. Thay vào đó, các ý tưởng trước đó như lưu trữ dữ liệu hay máy tính khoa học được các hãng tập trung hoàn thiện nhằm có thể hoạt động hoàn hảo hơn. Kết quả là những chiếc đồng hồ thế hệ tiếp theo ra đời với chức năng lưu trữ dữ liệu và tính toán đã có thể phối hợp cùng nhau để xử lý nhu cầu của người dùng. Dù vậy, tới đây thì chúng ta vẫn chưa có những chiếc đồng hồ có khả năng lập trình và cũng chưa có tính năng truyền thông.

smart-uc2000-580-90.
Seiko UC-2000, đồng hồ thông minh đi kèm với dock bàn phím nhập liệu và tích hợp máy in nhiệt​

Vào năm 1984, vấn đề lập trình đã được giải quyết một phần nhờ sự đóng góp cũng hãng Seiko. Đó là mẫu đồng hồ Data-2000 cho phép người dùng nhập ghi chú và đặc biệt là UC-2000, một chiếc máy vi tính đeo tay theo lời giới thiệu của hãng. Cả 2 mẫu đồng hồ đều được đi kèm với bàn phím nhập liệu, cho phép dữ liệu được nhập vào một cách dễ dàng hơn rất nhiều. UC-2000 sử dụng vi xử lý Z80, đi kèm với bàn phím kích thước khá lớn tích hợp máy in nhiệt, hỗ trợ chạy chương trình từ ROM. Phiên bản tiếp theo là UC-2200 đi kèm với bàn phím kích thước lớn hơn so với UC-2000, chạy trên nền tảng Microsft BASIC. Dù vậy, UC-2200 chỉ hỗ trợ đưa những phần mềm nhỏ do Seiko viết vào bộ nhớ RAM.

smart-RC1000-580-90.
Nguyên mẫu đồng hồ Seiko RC-1000 với khả năng truyền tải dữ liệu với máy tính thông qua cáp kết nối​

Dòng sản phẩm UC của Seiko tiếp tục tiếp nối bởi mẫu đồng hồ RC-1000 đi kèm với gói phần mềm hỗ trợ truyền tải dữ liệu với máy tính bằng dây cáp kết nối. Cùng với đó là mẫu Seiko UC-2001 được thiết kế dành riêng cho các máy tính Apple II. Đến thời điểm này, đồng hồ của Seiko đã có bộ nhớ 2kb để hỗ trợ lưu trữ các bản ghi chú hoặc danh mục. Giá của mỗi chiếc UC-2001 vào khoảng 500 đô la Mỹ và doanh số bán ra cũng không nhiều như dự kiến của Seiko.

epson_rc-20.
Một mẫu quảng cáo đồng hồ thông minh Epson RC-20 có thể trực tiếp chạy chương trình, hiển thị lên màn hình LCD​

Đến năm 1985, hãng Epson giới thiệu chiếc đồng hồ – máy vi tính hoạt động độc lập đeo tay đầu tiên mang tên Zilog Z80 RC-20. Người dùng đã có thể load các chương trình khác nhau vào ROM của RC-Z20 thông qua một phụ kiện đi kèm, sau đó trực tiếp chạy chương trình trên màn hình LCD ma trận điểm mà không cần có thiết bị hỗ trợ nào khác. Nói cách khác, đây được xem như chiếc đồng hồ đầu tiên có thể chạy ứng dụng một cách độc lập.

Trong giai đoạn đầu 1990, Seiko và Swatch đã phát triển nguyên mẫu đồng hồ nhắn tin đầu tiên, hỗ trợ truyền thông không dây trực tiếp giữa các đồng hồ. Vào năm 1990, Seiko chính thức giới thiệu đồng hồ Seiko Receptor sử dụng sóng thứ cấp tại các trạm thu phát radio để truyền gởi thông tin. Một năm sau đó, hãng Swatch cũng tung ra mẫu đồng hồ Beep dựa trên nguyên lý tương tự tại châu Âu. Cuối cùng vào năm 1995, hãng đồng hồ Timex cũng tung ra mẫu đồng hồ hỗ trợ truyền thông đầu tiên của hãng mang tên Beepwear.

timex-data-link.
Đồng hồ TImex Data Link 150, lần đầu tiên có thể giao tiếp không dây với máy tính thông qua kết nối quang học​

Đồng thời, chúng ta cũng phải kể tới mẫu đồng hồ Timex Data Link 150, chiếc đồng hồ đầu tiên có thể truyền tải dữ liệu không dây với máy tính. Với Data Link 150, người dùng có thể gởi các cuộc hẹn và thời gian báo thức từ máy tính lên đồng hồ thông qua cảm biến quang học trên mặt đồng hồ. Cuối thế kỷ 20 và cụ thể là năm 1998, Seiko chính thức tung ra đồng hồ Reputer, một chiếc máy tính có kích thước đồng hồ với CPU 16-bit, 3,6MHz, RAM 128kb và bộ nhớ 2MB. Giờ đây, người dùng đã có thể chạy các chương trình viết viết sẵn và hiển thị trên màn hình LCD 102x64px của đồng hồ. Cuối cùng, mẫu đồng hồ này được đổi tên thành Matsucom OnHand PC và chính thức bán ra tại thị trường Hoa Kỳ.

seiko_reputer.
Seiko Reputer, một chiếc máy tính có kích thước đồng hồ với CPU 16-bit, 3,6MHz, RAM 128kb và bộ nhớ 2MB, có thể chạy các chương trình viết viết sẵn và hiển thị trên màn hình LCD 102x64px​

Vậy là cho đến cuối những năm 1990, đồng hồ đã “thông minh hơn” với các khả năng lưu trữ dữ liệu, lập trình, đa phương tiện và truyền thông không dây. Tuy nhiên công nghệ không dừng lại ở đấy, vào những năm 2000, chúng ra sẽ chứng kiến những chiếc đồng hồ thông minh tương tự PDA, và nhiều chức năng khác cũng dần được bổ sung.

Những năm 2000: SPOT, PDA và kết nối không dây, sự xuất hiện của kết nối USB

ibm-lniux.
Đồng hồ IBM Linux Watch bộ nhớ RAM 8MB, bộ nhớ flash 8MB, sử dụng pin lithium-polymer​

Năm 2000 chứng kiến đóng góp đáng kể của IBM đối với sự phát triển của đồng hồ thông minh với chiếc đồng chạy hệ điều hành Linux. Tất cả những bộ phận bao gồm bộ nhớ RAM 8MB, bộ nhớ flash 8MB, viên pin lithium-polymer được gói gọn trong chiếc đồng hồ đeo trên cổ tay người dùng. 1 năm sau đó, IBM đã hợp tác với Citizen và tiếp tục cho ra mắt nguyên mẫu WatchPad 1.5 – chiếc đồng hồ duy nhất được trang bị CPU 74MHz ARM và chạy hệ điều hành Linux. Tuy cuối cùng thì WatchPad 1.5 không được thương mại hóa rộng rãi nhưng nó chính là một minh chứng quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển của đồng hồ thông minh ở các giai đoạn sau.


Video một số tính năng trên đồng hồ thông minh IBM Linux​

Cũng trong năm 2001 đã chứng kiến sự xuất hiện ngắn ngủi nhưng khá thú vị của một chiếc đồng hồ mang tên Web-@nywhere đến từ hãng World Network Limited có trụ sở đặt tại Hồng Kông. Đây là một chiếc đồng hồ với màn hình LCD 2 dòng hiển thị 18 ký tự. Người dùng sẽ sử dụng một chiếc dock đi kèm để kết nối chiếc đồng hồ với máy tính và sao chép những đoạn văn bản có kích thước 128kb từ các trang web xuống đồng hồ để đọc offline.

web.
Web-@nywhere đến từ hãng World Network Limited​

Tuy nhiên, chiếc đồng hồ này chỉ xuất hiện chủ yếu trên các catalog giới thiệu và không thể tạo được sức hút mạnh mẽ trên thị trường do khả năng hiển thị nội dung văn bản trên màn hình vẫn còn khá hạn chế.

Fossil FX2001 Wrist PDA (2002) .
Fossil FX2001 Wrist PDA, thiết bị PDA đeo cổ tay chạy Palm OS được giới thiệu năm 2002​

Nếu như cuối thế kỷ 20, chiếc đồng hồ Reputer của Seiko như một điểm sáng trong lịch sử phát triển đồng hồ thông minh thì vào đầu thế kỷ 21, một đối thủ cạnh tranh khác của nó là Fossil chính thức tham gia cuộc chơi. Fossil được biết đến rộng rãi với những mẫu đồng hồ thời trang. Trước xu thế phát triển chung của công nghệ, hãng đã quyết định phát triển những nguyên mẫu đồng hồ đầu tiên của hãng. Qua nhiều thử nghiệm ban đầu, cuối cùng thì vào năm 2002, hãng chính thức giới thiệu FX2001 Wrist PDA, thiết bị PDA đeo cổ tay chạy Palm OS.

Timex Ironman Data Link USB (2003) .
Timex Ironman Data Link USB một bản nâng cấp của Timex Data Link, cho phép cài đặt nhiều chương trình, kết nối với máy tính bằng cổng USB​

1 năm sau đó, vào năm 2003, hãng đồng hồ Timex đã nâng cấp dòng sản phẩm Data Link trước đó với phiên bản Timex Ironman Data Link USB. Chiếc đồng hồ này cho phép người dùng có thể cài đặt các chương trình khác nhau và hiển thị trên màn hình LCD ma trận điểm. Tuy nhiên, thay vì sử dụng cảm biến quang học như phiên bản trước đó, Timex Ironman sử dụng cáp USB để kết nối với máy tính nhằm cài thêm các ứng dụng, game, tiện ích sức khỏe do hãng cung cấp hoặc do bên thứ 3 phát triển.

bill-gates_va_spot.
Bill Gates đang giới thiệu nền tảng Smart Personal Objects Technology (SPOT) của Microsoft​

Một dự án khác cũng do Fossil thực hiện là chiếc đồng hồ Wrist .Net được giới thiệu chính thức vào năm 2004. Đây là thiết bị sử dụng công nghệ Smart Personal Objects Technology (SPOT), dùng sóng thứ cấp của các trạm thu phát sóng radio để nhận các thông tin tức thời từ dịch vụ MSN Direct do Microsoft cung cấp.

Fossil FX2008 Wrist PDA (2005) .
Fossil FX2008 Wrist PDA 2.0 ra mắt năm 2005​

Đến năm 2005, hãng Fossil tiếp tục giới thiệu phiên bản thứ 2 của chiếc đồng hồ chạy Palm OS với tên gọi Fossil FX2008 Wrist PDA 2.0. Dù phiên bản mới của Wirst PDA được trang bị thêm nhiều tính năng hơn nhằm đáp ứng các nhu cầu phức tạp của người dùng, nhưng phần cứng mà đặc biệt là màn hình đã quá lạc hậu so với thời điểm bấy giờ. Thêm vào đó, thời lượng pin của Wrist PDA 2.0 khá kém và một số người còn đánh giá là có độ bền không cao. Kết quả dĩ nhiên là không có nhiều sản phẩm được bán ra sau đó.

Dù vậy, sự phát triển của đồng hồ thông minh không phải do đó mà dừng lại và Fossil cũng không phải vì thất bại của Wrist PDA 2.0 mà bỏ cuộc. Bằng chứng là nhiều nguyên mẫu đồng hồ đã được Fossil nhanh chóng thiết kế và giới thiệu sau đó dưới 2 thương hiệu là Abacus và Sony Ericsson. Đó là những chiếc đồng hồ MBW-100, 150, 200,… với khả năng ghép đôi với điện thoại di động thông qua kết nối Bluetooth để đồng bộ thông tin trạng thái cuộc gọi đến, tin nhắn SMS, hiển thị bản nhạc đang phát,…

citizen_2007.
Một mẫu quảng cáo của Citizen Virt W700 ra mắt năm 2007 với khả năng kết nối bluetooth với điện thoại​

Năm 2007, hãng Citizen chính thức giới thiệu Virt W700 với khả năng kết nối bluetooth với điện thoại di động. Tuy nhiên, những chiếc đồng hồ đến từ hãng Nhật Bản này không giành được nhiều thành công tại các thị trường lớn trên thế giới.

lg_g910.
Đồng hồ thông minh LG GD910 được giới thiệu vào năm 2009​

Cuối cùng, để kết thúc giai đoạn này, chúng ta sẽ nhắc tới LG GD910, 1 trong những chiếc đồng hồ thông minh của LG với màn hình cảm ứng 1.3 inch, hỗ trợ kết nối 3G, gọi điện video và được tích hợp cả phần mềm nhận dạng giọng nói. Đây được xem như cải tiến đáng giá nhất về ngoại hình lẫn chức năng so với những mẫu đồng hồ thông minh trước đây. Đồng thời, cũng trong năm 2009, Samsung chính thức giới thiệu chiếc đồng hồ Samsung S9110. Về cơ bản, S9110 có màn hình 1,76 inch, độ phân giải 176x220px, hỗ trợ kết nối bluetooth, duyệt mail, trả lời tin nhắn thông qua màn hình cảm ứng và có thể thực hiện cuộc gọi một cách độc lập.

samsung-s9110.
Samsung S9110, chiếc đồng hồ thông minh được giới thiệu vào năm 2009​

Từ nằm 2010 đến nay: Kỷ nguyên của công nghệ hiện đại bắt đầu

Cuối cùng thì chúng ta đã đi tới chặng đường cuối cùng của bài viết, nhưng đây vẫn chỉ là những bước đi đầu tiên của công nghệ đồng hồ thông minh. Sau đây, chúng ta sẽ bắt gặp những chiếc đồng hồ ra mắt cách đây vài năm và thậm chí đang được bán ra trên thị trường. Từ năm 2010 đến nay, phần lớn những chiếc đồng hồ thông minh đều hỗ trợ kết nối tới thiết bị chủ thông qua Bluetooth nhằm hiển thị các thông báo. Một số chỉ là thiết bị hiển thị thông tin cuối, nhưng một số đã có hẳn một vi xử lý và chạy được các ứng dụng hoàn toàn độc lập.

LiveView_PHP-Top-Image.
Sony Ericsson LiveWiew được giới thiệu vào tháng 9 năm 2010​

Đầu tiên, mở đầu cho kỷ nguyên công nghệ hiện đại là Sony Ericsson LiveWiew được giới thiệu vào tháng 9 năm 2010. Đây là thiết bị sử dụng màn hình OLED, hỗ trợ hiển thị các widgets, nhận thông tin từ điện thoại. Các tính năng vẫn còn khá hạn chế và dĩ nhiên là không sánh bằng với những chiếc đồng hồ thông minh hiện nay.

ipod_nano_gen_6.
iPod Nano Gen 6, thiết bị có thể biến thành đồng hồ thông minh​

Cũng trong tháng 9 năm 2010, một thiết bị “tuy không chính thức” nhưng vẫn được xem như đại diện của đồng hồ thông minh chính là chiếc iPod Nano gen 6 của Apple. Tuy nhiên, với kích thước khá nhỏ gọn của iPod Nano, người dùng chỉ cần sử dụng thêm một chiếc vòng phụ kiện của bên thứ 3, dùng dây nhựa, dây da,…. là có thể đeo nó trên tay và dĩ nhiên nó sẽ trở thành đồng hồ thông minh đúng nghĩa.

allerta-inpulse-smartwatch.
Đồng hồ thông minh inPulse với màn hình OLED được hãng Allerta giới thiệu vào tháng 10 năm 2010​

Ngay sau đó, vào tháng 10 năm 2010, hãng Allerta chính thức giới thiệu chiếc đồng hồ thông minh inPulse với màn hình OLED, sử dụng chủ yếu cùng với các ứng dụng trên điện thoại BlackBerry. Bên cạnh đó, inPulse cũng có hỗ trợ sử dụng kèm với các thiết bị chạy Android. Đến tháng 8 năm 2012, WIMM One giới thiệu nguyên mẫu đồng hồ chạy Android với giao diện người dùng có tính tùy biến cao, hỗ trợ nhiều kiểu đồng hồ điện tử và số lượng widget khá đa dạng. Sử dụng màn hình LCD, phần cứng của WIMM One cũng được đánh giá là mạnh hơn so với các đồng hồ trước đó và điều đặc biệt là có hỗ trợ kết nối WIFI. Một điều đáng tiếc, đây chỉ là mẫu đồng hồ dành cho các nhà phát triển và được bán ra với số lượng vô cùng hạn chế.

motoactv-press-shot.
Motorola giới thiệu mẫu đồng hồ thông minh MOTOACTV vào tháng 11 năm 2011​

Tiếp theo là vào tháng 11 năm 2011, Motorola giới thiệu mẫu đồng hồ thông minh MOTOACTV và chính thức bước vào cuộc chơi đồng hồ thông minh như một xu hướng tất yếu của thị trường. MOTOACTV được trang bị vi xử lý đơn nhân tương tự như các mẫu điện thoại của Motorola và chạy hệ điều hành Android. Dù vậy, đây lại là một thiết bị được phát triển chủ yếu cho việc tập luyện thể thao và chơi media. Tuy nhiên, nó cũng hỗ trợ hiển thị các thông báo từ điện thoại Motorola. Một điểm chưa được hoàn hảo chính ở MOTOACTV chính là chiếc đồng hồ sẽ tự tắt màn hình và khi muốn sử dụng, người dùng phải mở lên bằng phím bấm.

SmartWatch_PP_ColorW_270x433.
SmartWatch được Sony giới thiệu vào tháng 2 năm 2012​

Đến tháng 2 năm 2012, Sony chính thức thay thế đồng hồ thông minh LiveView bằng SmartWatch, chếc đồng hồ được cải thiện cả về giao diện người dùng lẫn phần cứng bên trong. Dù vậy, màn hình sử dụng trên SmartWatch của Sony vẫn là màn hình OLED và vẫn phải tắt khi không sử dụng màn hình để tiết kiệm pin. Do đó, một số ý kiến vẫn chưa hài lòng với bản nâng cấp này của Sony. Cũng trong đầu năm 2012, Pebble Technology chính thức khởi động chương trình gây quỹ trên Kickstarter nhằm thương mại hóa một chiếc đồng hồ thông minh với màn hình E-ink.

pebble.
Pebble, chiếc đồng hồ màn hình E-ink được giới thiệu vào đầu năm 2012

Ngay sau đó, Pebble đã nhanh chóng gây được sự chú ý của thị trường bằng màn hình ít tiêu thụ điện năng, thời lượng pin dài, hỗ trợ đồng bộ với cả Android và iOS thông qua Bluetooth. Đồng thời, Pebble cũng có thể chạy các ứng dụng của bên thứ 3 phát triển. Ban đầu, nhóm phát triển chỉ dự định gây số quỹ tài trợ là 100.000 đô la Mỹ, nhưng con số này đã nhanh chóng vượt quá 10 triệu đô.

Moto-360_Map-820x420.
Moto360, một trong những chiếc đồng hồ thông minh chạy Android Wear​

Cách đây vài tháng, Google cũng đã chính thức giới thiệu nền tảng phần mềm cho đồng hồ thông minh mang tên Android Wear. Thay vì sản xuất những chiếc đồng hồ thông minh cho riêng mình, Google lại chọn cách như Android là tại ra nền tảng chung để tất cả các hãng khác đều có thể làm đồng hồ thông minh chạy Android Wear. Những hãng công nghệ lớn như Samsung, LG hay Motorola đều đã giới thiệu đồng hồ thông minh chạy Android Wear của riêng họ. Tựu chung, tất cả các thiết bị này đều hỗ trợ 2 chức năng trọng tâm là kết nối với điện thoại và hiển thị thông báo.

2585822_AppleWatch.

Cuối cùng, gần đây nhất là vào ngày 9/9 vừa qua, Tim Cook, CEO của Apple đã chính thức giới thiệu chiếc đồng hồ thông minh của hãng với tên gọi AppleWatch. AppleWatch có thiết kế unibody nguyên khối, chống nước, có nhiều tùy chọn dây đeo, màu sắc khác nhau và đáng chú ý mặt kính được làm bằng sapphire như các mẫu đồng hồ cao cấp khác. Như nhiều mẫu đồng hồ khác hiện nay, AppleWatch cũng được trang bị các loại cảm biến thông minh, núm điều chỉnh Digital Crown và đặc biệt là giao diện người dùng mang phong cách riêng của Apple.

Kết

span6.

Vậy là chúng ta vừa đi qua gần 80 năm lịch sử phát triển của những chiếc đồng hồ thông minh. Từ nguyên mẫu đồng hồ cơ ban đầu chỉ với viền có khắc thang đo logaric, đến những chiếc đồng hồ có thể tính toán phép tính được. Sau đó là hàng loạt những tính năng được bổ sung, từ xem TV, đa phương tiện, lưu dữ liệu, chạy ứng dụng,… cho đến những chiếc đồng hồ thông minh hiện nay với đủ các cảm biến theo dõi sức khỏe con người và đồng bộ một cách hiệu quả với smartphone.

Tất cả đều thông minh! Vậy chúng ta sẽ mong chờ gì đối với những chiếc đồng hồ trong tương lai? Có thể là pin xài được hơn 3 ngày, có thiết kế thời trang phù hợp với mắt thẩm mỹ của nhiều người, theo dõi sức khỏe của con người thông minh hơn, có thể sử dụng độc lập hoàn toàn với điện thoại, giao diện và cách dùng thân thiện với tất cả mọi người,… Đó chính là những mong muốn của mình đối với đồng hồ thông minh trong tương lai. Còn bạn thì sao? Hãy comment xuống bên dưới nhé. Cuối cùng cám ơn các bạn đã theo dõi bài viết này. Chúc vui. :D

Xem thêm các bài viết về những chiếc đồng hồ thông minh gần đây:

Leave a comment