[Technology] Các nhà nghiên cứu Hà Lan xác lập kỷ lục mới về tốc độ truyền dữ liệu: 255 Terabits/s

Tinhte_soi_cap_quang_7_loi_2.

Các nhà nghiên cứu tại Đại học công nghệ Eindhoven (TU/e), Hà Lan, tuyên bố đã phát triển thành công dạng cáp thế hệ mới với băng thông lớn gấp 21 lần so với chuẩn giao tiếp mạng hiện tại. Với dạng cáp nói trên, nhóm nghiên cứu đã lập kỷ lục mới với tốc độ truyền tải dữ liệu là 255 Terabits/s. Dạng cáp mới hứa hẹn sẽ giải quyết được vấn đề tắc nghẽn mạng cáp quang do nhu cầu sử dụng đang ngày càng tăng như hiện nay.

Ngày nay, mức tăng trưởng nhanh chóng của các dịch vụ Internet và sự ra đời của ngày càng nhiều các trung tâm dữ liệu, kéo theo nhu cầu sử dụng băng thông cũng tăng theo một cách đột biến. Để truyền được lượng dữ liệu lớn hơn bằng hệ thống cáp quang hiện tại, một lựa chọn được đề xuất là tăng cường độ tín hiệu để khắc phục những hao hụt vốn có trong quá trình truyền dữ liệu trên vật liệu sợi thủy tinh. Tuy nhiên, cách làm này vô tình tạo ra hiệu ứng quang học phi tuyến, khiến việc phục hồi thông tin sau quá trình truyền tải chỉ có thể được thực hiện trong một giới hạn nhất định.

Tinhte_soi_cap_quang_7_loi.
Dạng cáp mới với 7 loại lõi, mỗi lõi có thêm 2 chiều vuông góc, cho tốc độ truyền dữ liệu đạt 255 Terabits/s

Nhóm các nhà nghiên cứu tại TU/e, dẫn đầu bởi tiến sĩ Chigo Okonkwo và Rodrigo Amezcua Correa, đã chứng minh tiềm năng của một dạng cáp mới giúp tăng khả năng truyền tải dữ liệu và giảm thiểu ảnh hưởng khi tình huống tắc nghẽn xảy ra. Công trình nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Nature Photonics số ra mới đây.

Về cơ bản, dạng cáp mới bao gồm 7 lõi khác nhau thay vì chỉ có 1 lõi như trên thế hệ cáp quang hiện tại. Mỗi lõi đều có khả năng truyền dẫn ánh sáng. Chúng ta có thể hình dung dạng sợi mới như một con đường cao tốc với 7 làn đường khác nhau. Tuy nhiên, điểm đặc biệt là mỗi “làn đường” được bổ sung thêm 2 chiều vuông góc. Đồng thời các “làn đường phụ” cũng có khả năng truyền tải dữ liệu. Điều này cho phép “3 xe chở dữ liệu” có thể di chuyển trên cùng một “làn đường”. Kết quả cuối cùng, kỹ thuật này cho phép các nhà nghiên cứu có thể truyền được tổng cộng 255 Terabits dữ liệu mỗi giây, nhanh gấp 20 lần so với chuẩn hiện tại (4-8 Terabits/s). Con số này tương đương tốc độ khoảng 32Terabyte/s.

Tiến sĩ Chigo Okonkwo cho biết: “Dạng cáp mới có đường kính chưa tới 200 micromet nên sẽ không chiếm nhiều không gian như các hệ thống cáp trước đây. Tuy nhiên, tốc độ truyền tải dữ liệu của nó là thật sự đáng kinh ngạc. Mặt khác, đây chỉ là khởi đầu và khả năng trong tương lai, con số tốc độ có thể tăng lên tới hàng Petabits/s.” Đó cũng chính là mục tiêu chính trong chương trình nghiên cứu phát triển công nghệ truyền dữ liệu do Ủy ban liên minh châu Âu khởi xướng và dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2020. Đồng thời, loại cáp mới còn tạo tiền đề cho nhiều kỷ lục khác được xác lập trong tương lai nhằm giải quyết nhu cầu băng thông internet toàn cầu đang tăng trưởng cực kỳ nhanh chóng như hiện nay.

Tham khảo Extremetech, NP, STR

[Technology] UC Riverside phát triển thành công siêu tụ điện graphene mới, hiệu năng gấp đôi các sản phẩm hiện có

siêu_tụ_điện_01.
Từ trái sang là các nhà nghiên cứu Mihrimah Ozkan, Cengiz Ozkan và Zachary Favors.

Các nhà nghiên cứu tại đại học California, Riverside (UCR) đã vừa phát triển một loại siêu tụ điện graphene sử dụng một cấu trúc nano để tăng gấp đôi hiệu suất năng lượng so với các sản phẩm thay thế hiện có trên thị trường. Phát hiện này là một bước tiến quan trọng khác nhằm mở ra tiềm năng sử dụng các siêu tụ điện trên những chiếc xe chạy điện (EV) và thiết bị điện tử cá nhân với hiệu năng cao và sạc nhanh.

Siêu tụ điện là các thiết bị lưu trữ năng lượng rất ổn định và bền với mật độ năng lượng cao (điện năng/đơn vị khối lượng) nhưng năng lượng riêng rất thấp (năng lượng lưu trữ/đơn vị khối lượng). Điều này có nghĩa siêu tụ điện có thể cung cấp một lượng lớn điện năng nhưng chỉ trong vài giây một lần.

Một nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu bởi giáo sư Cengiz S. Ozkan tại UCR mới đây đã phát triển một thiết kế mới cho siêu tụ điện với mức năng lượng riêng 39,3 Wh/kg và mật độ năng lượng 128 kW/kg, gần gấp đôi hiệu năng của các siêu tụ điện thương mại về cả 2 chỉ số.

siêu_tụ_điện_02.

Để đạt được điều này, nhóm nghiên cứu đã tạo ra một khối bọt có cấu trúc lỗ rỗ chứa các ống nano carbon. Các lỗ hổng nano mang lại một diện tích tiếp xúc lớn để giúp các chất điện phân thấm qua dễ dàng và cho phép nó lưu trữ năng lượng dày đặt hơn so với các thiết kế thông thường.

Khối bọt được tạo ra bằng quy trình lắng đọng hơi hoá học của graphene và các ống nano carbon trên một chất nền bằng niken (Ni) và tiếp tục lắng đọng các hạt nano ruthenium oxide ngậm nước (RuO2), trong đó mỗi hạt có kích thước dưới 5 nm. Bên trong khối bọt, graphene vừa đóng vai trò thu thập dòng điện vừa đóng vai trò là một lớp đệm để dẫn electron và cách ly khối bọt khỏi chất điện phân.

Một trong những ưu thế của siêu tụ điện so với pin thông thường là hiệu suất sạc/xả ưu việt và thiết kế siêu tụ điện của UCR không phải là ngoại lệ. Kỳ lạ hơn, điện dung của nó không chỉ ổn định hơn mà còn thực sự được cải thiện thêm 6% sau 8100 lần sạc/xả. Các nhà nghiên cứu tin rằng sự cải thiện này có được là nhờ tính năng điện hoá của các vật liệu hoạt hoá.

Hiệu năng cao, độ ổn định và dễ chế tạo của hệ thống này khiến nó rất có tiềm năng để sản xuất với số lượng lớn trong tương lai. Và mặc dù năng lượng riêng của nó vẫn chưa thể so sánh với công nghệ pinLi-ion nhưng đây là một bước đi quan trọng để phát triển đúng hướng.

Báo cáo chi tiết về siêu tụ điện của UCR đã vừa được đăng tải trên tạp chí Nature Scientific Reports.

Nguồn: UC Riverside

[Technology] Các nhà nghiên cứu chế tạo thành công dây điện vừa truyền vừa lưu trữ năng lượng

Dây_siêu_điện_dung.

Mới đây 2 nhà nghiên cứu đến từ đại học Central Florida (UCF) đã tìm ra một phương pháp sử dụng công nghệ nano để tạo ra các dây điện với điện dung cực lớn. Mục tiêu sau cùng của họ là tạo ra một loại dây điện vừa có khả năng truyền dẫn, vừa có thể lưu trữ năng lượng như pin.

Giáo sư Jayan Thomas và nghiên cứu sinh tiến sĩ Zenan Yu sử dụng kỹ thuật “nuôi trồng” các sợi nano đồng oxit trong phòng thí nghiệm để thiết kế loại dây điện đặc biệt nói trên. Các sợi này có thể mang lại liên kết dẫn giữa lớp trong và lớp ngoài của dây điện siêu điện dung.

Khởi đầu, nhóm nghiên cứu phát triển một lớp sợi nano từ đồng oxit được cách ly trên lớp ngoài cùng của một sợi dây đồng. Sau đó, các sợi nano được xử lý với hợp kim vàng-palladium và cuối cùng, một lớp phủ mangan oxit hoạt động điện hóa được kết tụ trên hợp kim. Kết quả là các sợi nano sẽ đóng vai trò là một lớp vỏ bao quanh dây đồng và hình thành điện cực đầu tiên.

Để bổ sung điện cực thứ 2 nhằm mang lại khả năng lưu trữ năng lượng, nhóm nghiên cứu đã phủ điện cực đầu tiên với một chất điện phân thể rắn và một lớp ngăn cách bằng polymer, sau đó lắp một điện cực khác hình trụ tròn xung quanh nó. Điện cực thứ 2 được hình thành theo cách tương tự điện cực đầu tiên nhưng các sợi nano lại được đính vào một lá đồng để hoạt động như một trục dẫn xung quanh lớp ngoài.

Ứng dụng thực tế của dây điện siêu điện dung là giúp các thiết bị lưu trữ năng lượng và các hệ thống trở nên linh hoạt hơn, đeo được và có thể tích hợp trực tiếp vào quần áo cũng như vải dệt. Những sợi cáp siêu tụ điện có thể uốn cong cũng có thể được dùng cho các thiết bị điện tử và khiến chúng nhỏ hơn và di động hơn bằng việc giảm thiểu đáng kể kích thước pin hoặc tích hợp các dây lưu trữ năng lượng vào thiết bị nhằm thay thế cho pin.

Mặc dù vẫn cần được cải tiến nhưng kỹ thuật “nuôi trồng” các sợi nano của nhóm nghiên cứu có thể được áp dụng trên nhiều loại vật liệu khác không chỉ riêng đồng. Nhóm nghiên cứu cho rằng khi công nghệ phát triển hơn, các loại sợi và cáp bằng chất liệu khác có thể được phát triển với cấu trúc nano tương tự để có thể truyền dẫn và lưu trữ năng lượng.

Nguồn: UCF

[Technology] Đại học Illinois tạo ra graphene chất lượng cao bằng hệ thống phun siêu âm

Graphene.

Bằng việc sử dụng vòi phun siêu âm có trên động cơ phản lực và tên lửa đẩy, các nhà nghiên cứu tại đại học Illinois tại Chicago đã tìm ra một phương pháp đơn giản và không tốn kém để sản xuất các phiến graphene chất lượng cao, không khiếm khuyết trên một loạt các loại chất nền.

Phương pháp được phát triển dưới sự hợp tác giữa đại học Illinois và một số nhà nghiên cứu đến từ Hàn Quốc. Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đã sử dụng graphene huyền phù có sẵn trên thị trường (một chất lỏng chứa graphene chất lượng thấp phân tán) và sau đó sử dụng các đầu phun siêu âm để làm lắng graphene trên một chất nền. Từ đây, họ đã có thể thu được graphene dạng phiến thành phẩm mà không cần xử lý gì thêm.

Thông thường, quy trình sẽ khiến graphene được phủ không đều trên chất nền ở dạng huyền phù. Tuy nhiên, khi được phun ở tốc độ siêu âm, graphene đập vào chất nền với động năng đủ lớn khiến nó được trải đều hoàn hảo thành một tấm graphene với độ dày chỉ bằng một nguyên tử. Alexander Yarin – đồng chỉ đạo nghiên cứu cho biết: “Hãy tưởng tượng một thứ gì đó giống như cục cao su dẻo Silly Putty được ném vào tường – nó sẽ dãn ra và trải đều mượt mà. Đây là những gì chúng tôi tin đã xảy ra với các lớp graphene. Chúng va vào chất nền với động năng cực lớn và dãn ra theo mọi hướng. Chúng tôi đang khai thác tính dẻo của graphene và nó thật sự được tái kết cấu.”

Các nhà nghiên cứu cho biết chìa khóa của quy trình là vòi phun Laval – một dạng vòi phun siêu âm có hình đồng hồ cát kéo dãn 2 đầu. Điểm thắt ở giữa khiến chất lòng đạt gia tốc lớn đến tốc độ siêu âm và sau đó thoát ra ngoài. Loại vòi phun này thường được sử dụng trong tên lửa và động cơ phản lực để tăng tốc khí nén và tạo ra nhiều lực đẩy hơn. Trong trường hợp với graphene, graphene huyền phù được gia tốc để đạt động năng đủ để kích hoạt hiệu ứng Silly Putty.

Do chỉ dựa vào kỹ thuật phun siêu âm mà không cần đến các quy trình hậu xử lý, các nhà nghiên cứu cho biết phương pháp có thể được sử dụng để phủ graphene trên nhiều vật liệu khác nhau và có thể định hình với graphene chất lượng cao. Trong thời gian tới, nhóm nghiên cứu sẽ tăng tỉ lệ của phương pháp với hy vọng phát triển các ứng dụng graphên với quy mô công nghiệp.

Nguồn: ExtremeTech

[Technology] Apple đang tham gia một cuộc chiến mà hãng không thể thắng với Messages?

iMessage. ​

Tại buổi thuyết trình của mình trong khuôn khổ sự kiện WWDC mới diễn ra, Apple đã nói rằng “Messages là ứng dụng được sử dụng thường xuyên nhất trên iOS“. Với những tính năng mà hãng vừa bổ sung cho dịch vụ nhắn tin này, Apple đã cho thấy rõ rằng hãng sẽ tiếp tục duy trì sự thường xuyên đó, thậm chí đẩy nó lên một mức cao hơn. Messages giờ đây sở hữu nhiều tính năng hấp dẫn không thua kém gì những dịch vụ nhắn tin Over-The-Top (OTT) như Zalo, WhatsApp, Viber, Snapchat, Facebook Messenger cùng hàng loạt tên tuổi lớn nhỏ khác.

Messages giờ đây không chỉ cho phép chúng ta nhắn tin mà còn gửi những đoạn thu âm ngắn giữa nhiều người dùng với nhau, giống Zalo, WhatsApp và Facebook Messenger. Những tin âm thanh hoặc video gửi lên Messages sẽ tự động biến mất sau một khoảng thời gian nhất định trừ khi người dùng nhấn nút “Keep”, một tính năng đã từng có mặt trên Snapchat. Chưa hết, giống Path, bạn có thể chia sẻ địa điểm của mình, và giống như Moped, bạn có thể xem danh sách những hình ảnh đã chia sẻ bên trong cuộc hội thoại. Nói cách khác, Apple đã gom nhiều tính năng nổi bật của các đối thủ và đưa hết vào Messages, giúp cho dịch vụ này trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Bên cạnh đó, hãng còn thêm vào những các thao tác mà chúng ta hay thấy ở các app OTT, ví dụ như việc chạm để ghi hình, chạm và giữ nút ghi âm để gửi tin voice, trượt ngón tay để gửi tập tin… Với những nước đi như thế này, Apple đã chứng minh cho thế giới rằng họ không chỉ đề cao những tính năng xã hội mà còn chú ý đến những cách thức thiết kế giao diện người dùng phổ biến và sẵn sàng áp dụng chúng nhanh nhất có thể.

Messages.PNG
Chưa hết, giờ đây người dùng iOS 8 còn có thể trả lời tin nhắn mà chẳng cần phải mở khóa điện thoại. Chỉ bằng việc đưa điện thoại lên tai, bạn có thể nghe các tin nhắn giọng nói từ bạn bè, sau đó trả lời lại mà không cần đụng ngón tay vào màn hình. Những cải tiến với khả năng tự động gợi ý từ của bàn phím ảo cũng là một thứ thu hút bởi nó sẽ tự động học văn phong của người dùng trong quá trình sử dụng, và văn phong này chắc chắn khác với khi viết email. Như lời của Apple thì “giọng văn của bạn trong một bức thư có lẽ sẽ khác với giọng văn dùng trong lúc chat”. Những sự tích hợp này hiện mới chỉ xuất hiện trong các ứng dụng của Apple, trong trường hợp này là Messsages, giúp hãng có được lợi thế về mặt tiện ích so với các đối thủ.

Thực sự mà nói thì những tính năng như thế này cũng rất dễ để sao chép giữa các ứng dụng với nhau. Như cách mà người ta thường nói thì thời đại này là “tôi lấy của anh, anh lấy của tôi”, nhất là trong thị trường phần mềm.

Trong khi đó, từ năm 2007 đến nay ứng dụng Messages gần như chẳng thay đổi gì so với lần đầu tiên nó xuất hiện trên iPhone, mãi đến WWDC năm nay chúng ta mới được chứng kiến Apple đem hàng tá những đặc điểm từ các đối thủ lên Messages. Điều này cho thấy rằng Apple đang suy nghĩ khác đi về việc nhắn tin, và có lẽ đây cũng là lần đầu tiên hãng tự đặt ra câu hỏi về những gì có khả năng làm cho Messages trở thành ứng dụng được xài nhiều nhất trên điện thoại.

Tuy nhiên, Messages có một nhược điểm chết người, và cũng là điểm yếu lớn nhất khiến Messages thua kém so với các đối thủ: không hỗ trợ đa nền tảng. Dịch vụ nhắn tin hiện chỉ mới hoạt động trên OS X và iOS, còn người dùng Windows, Windows Phone, Android thì xin chia buồn. Trong khi đó, Viber, Zalo, WhatsApp, Facebook Messenger… đều đã có app cho rất nhiều hệ điều hành khác nhau, thậm chí một số còn cung cấp giao diện nền web để truy cập dễ dàng hơn từ mọi thiết bị. Có thể ở Mỹ, nơi iPhone có thị phần lớn, Messages sẽ thành công, nhưng còn ở nhiều nơi khác trên thế giới thì không như thế. Vì sao người dùng lại chọn một dịch vụ mà không chắc rằng bạn bè của mình ai ai cũng có thể xài được? Tại sao họ không sử dụng những app đa nền tảng khác có phải là dễ dàng hơn không?

Từ trước đến nay Apple có truyền thống đó là không cung cấp ứng dụng của mình cho các nền tảng đối thủ, nếu có thì chỉ ưu ái cho mỗi iCloud với phần mềm đồng bộ dành cho Windows mà thôi. Chính vì thế, khó có khả năng Apple sẽ cung cấp ứng dụng Messages cho Android, Windows Phone hay Windows, mà nếu có đi nữa thì thời gian từ đây đến đó cũng còn rất rất lâu.

Nói cách khác, dịch vụ nhắn tin chỉ hỗ trợ cho một hệ sinh thái duy nhất thì không thể nào thắng được. Thứ mà người dùng cần đó là sự tiện lợi, là khả năng kết nối với nhiều bạn bè nhất có thể, là khả năng nhắn tin và đảm bảo đầu bên kia nhận được nội dung. Dù cho Messages có nhiều tính năng hay tới cỡ nào, giao diện có hấp dẫn đến đâu Apple cũng không thể nào thắng được nếu chỉ quyết tâm cung cấp dịch vụ cho OS X và iOS. Còn nếu kiên trì đi theo còn đường này, hãng sẽ phải làm nhiều hơn là việc bổ sung tính năng mới để có thể cứu lấy tham vọng về ứng dụng nhắn tin của mình.

Tham khảo: The Verge

[Technology] Chiếc taxi không gian mới của trùm công nghệ Elon Musk

Nếu như trước đây chúng ta chỉ thấy những phi thuyền không gian nhỏ gọn trong truyện tranh viễn tưởng thì nay chúng ta có thể chiêm ngưỡng chúng tại Hawthorne, California. Phi thuyền Dragon V2 (Version 2) sản xuất bởi tập đoàn công nghệ thám hiểm không gian SpaceX có thể đi lên trạm vũ trụ quốc tế và tự hạ cánh tại bất cứ đâu trên trái đất.

Phi thuyền Dragon v2. Ảnh : slashgear.com

Elon Musk, người sáng lập SpaceX cho biết, “đây thật sự là một bước nhảy vọt về công nghệ”. Hiện tại, chi phí để đưa các phi hành gia ra ngoài vũ trự là 70 triệu USD/ người sử dụng tàu Soyuz của Nga. Tuy nhiên SpaceX sẽ cạnh tranh với người Nga và với nhiều công ty khác như Boeing, Blue Origin, Sierra Nevada để hướng tới thương mại hóa việc đưa con người lên không gian trong 2 – 3 năm tới.

Hình ảnh phóng tàu vũ trụ Soyuz của Nga. Ảnh : mrwallpaper.com

Trước khi có Dragon V2, SpaceX đã chế tạo ra phi thuyền Dragon, là phi thuyền tư nhân đầu tiên đưa hàng hóa lên trạm không gian ISS và quay trở về trái đất (2012). Dragon thay thế cho dạng phi thuyền vận chuyển Cygnus, chỉ dùng được một lần và bốc cháy khi trở về quỹ đạo.

Dragon V2 cải tiến từ Dragon và có thể chở lên tới 7 phi hành gia. Musk nhấn mạnh hai điểm ưu việt của Dragon V2: chiếc phi thuyền này có thể tự tiếp cận trạm không gian ISS mà không cần nhờ cánh tay robot của trạm hỗ trợ. Phi thuyền còn có thể tự hạ cánh theo kiểu máy bay trực thăng, thay vì phải sử dụng dù và lợi dụng mặt nước biển để giảm tốc. Điều này khiến cho Dragon V2 có thể hạ cánh tại bất cứ đâu, nhanh chóng được sử dụng lại, hạ đáng kể giá thành cho việc di chuyển lên vũ trụ.

Khoang của Dragon 2 chứa được 7 phi hành gia. Ảnh : theaviationist.com

Kể từ khi chương trình tàu không gian của NASA phải đóng cửa (2011) do các tai nạn của tàu không gian, NASA đã hợp tác với nhiều công ty như SpaceX, Boeing, Blue Origin, SpaceX nhằm phát triển thế hệ tàu không gian mới rẻ hơn và tiện lợi hơn. Với những bước nhảy vọt về công nghệ như DragonX, chúng ta có thể tin rằng tương lai khi con người đi vào không gian như đi taxi không còn xa nữa.

NASA còn cho biết họ đang xây dựng những tàu không gian có thể đưa con người vào sao Hỏa trong những năm 2030.

[Technology] Nest Labs, con át chủ bài của Google ở thị trường nhà thông minh

Khởi sự vào năm 2010, Nest Labs là một startup chuyên sản xuất các thiết bị gia dụng thông minh có kết nối Internet, bao gồm bộ điều chỉnh nhiệt có khả năng tự học hỏi thói quen của người dùng Nest Learning Thermostats, và thiết bị cảnh báo khói và khí CO Nest Protect. Bốn năm sau đó, vào đầu năm 2014, Google đã quyết định chi ra 3.2 tỷ USD để thâu tóm Nest. Tính về giá trị, đây là thương vụ lớn thứ hai trong lịch sử của gã khổng lồ công nghệ, chỉ đứng sau con số 12.5 tỷ USD mà hãng đã bỏ ra cho Motorola. Vậy đâu là cơ sở để Google quyết định chi ra số tiền khổng lồ đó?

Nest Labs với tham vọng thống trị thị trường nhà thông minh của mình. Ảnh : amazonsupply.com

Từ startup trong garage mang hình bóng của Apple

Giống như rất nhiều startup khác tại Palo Alto, California, Nest Labs được hình thành ngay trong một garage nhỏ được thiết kế theo phong cách craftsman đặc trưng của người Mỹ, nhưng sự khác biệt của Nest lại tới từ hai nhà đồng sáng lập Tony Fadell và Matt Rogers – hai cựu nhân viên của Apple. Fadell từng đứng đầu nhóm phát triển thiết bị nghe nhạc của Apple, được biết đến rộng rãi với vai trò “cha đẻ của iPod”, trong khi Rogers bắt đầu sự nghiệp tại đây năm 2004 như một kỹ sư thực tập. Chính những năm tháng làm việc tại Apple đó đã để lại dấu ấn rõ nét trong cách mà cả hai tạo đã nên Nest Labs.

Sản phẩm của Nest chịu ảnh hưởng lớn từ phong cách thiết kế đến triết lý làm sản phẩm của Apple. Giống như những gì Apple đã làm với điện thoại di động và thiết bị nghe nhạc cá nhân, Nest không phải là công ty tiên phong giới thiệu bộ điều chỉnh nhiệt, nhưng họ đã đưa sản phẩm này lên một tầm cao mới thông qua những cải tiến đột phát. Trước khi Nest Labs ra đời, hàng năm ở Mỹ đã có 10 triệu bộ điều chỉnh nhiệt được bán ra. Theo thông tin từ cục điều tra dân số Mỹ năm 2012, nước Mỹ hiện có 130 triệu hộ, một thị trường đã đủ lớn và hấp dẫn để Nest đầu tư và tái phát minh lại bộ điều chỉnh nhiệt cho các hộ gia đình.

Thật vậy, trả lời phỏng vấn tờ Entrepreneur, Rogers cho biết: “Câu hỏi đầu tiên của chúng tôi là, bỏ qua tất cả các sản phẩm từng xuất hiện trên thị trường, sản phẩm của chúng ta sẽ phải đột phá như thế nào?” Cả hai đã dành ra sáu tháng để mua và lắp đặt các thiết bị của đối thủ trong ngành, nghiên cứu những kênh bán hàng và mô hình kinh doanh mới. Kinh nghiệm làm việc tại Apple với 18 lần điều chỉnh iPod, 5 lần cải tiến iPhone và thiết kế lên iPad đời đầu đã giúp 2 nhà đồng sáng lập Nest Labs rất nhiều trong việc tạo nên một sản phẩm đột phá trong lĩnh vực nhà thông minh.

Tính đến tháng 1 năm 2014, Nest Labs đang bán ra từ 40 đến 50 nghìn sản phẩm hàng tháng, đứng đầu danh sách bán chạy nhất ở trong phân mục Building Supplies của Amazon.com, vượt qua cả các sản phẩm phổ thông khác như bộ điều khiển đóng mở cửa gara. Bỏ xa các đối thủ khác, Nest đã xây dựng được một nền tảng vững chắc trước cả khi thị trường nhà ở với các thiết bị được kết nối Internet (connected home) định hình hoàn chỉnh. Nest Learning Thermostats còn được kỳ vọng là người thay đổi cuộc chơi trong thị trường còn đầy tiềm năng này, giống như những gì iTunes đã làm được với thị trường âm nhạc thế giới. Với khả năng kết nối Wifi và đóng vai trò như bộ não của căn nhà thông minh, tiềm năng của Nest còn vượt xa hơn việc là một thiết bị điều chỉnh nhiệt độ đơn thuần.

Điều chỉnh Nest Thermostat thông qua smartphone. Ảnh : greenenergycs.net

Tới tham vọng thống lĩnh thị trường nhà ở thông minh của Google

Nhà thông minh (smarthome, connected home) là một thị trường mới mẻ và mang tính cơ bản của một trào lưu lớn khác trên thế giới hiện nay : Internet of Things (IoT). IoT là một khái niệm dùng để chỉ tất cả các vật hay thiết bị được cung cấp các định danh trong hệ thống và có khả năng tự động kết nối, truyền tải dữ liệu thông qua một mạng lưới mà không cần sự tương tác giữa con người với con người, hoặc con người với máy tính. Theo Gartner, trước năm 2020, sẽ có 26 tỷ thiết bị tham gia vào mạng lưới này, và theo báo cáo của Progressive Policy, IoT được dự báo sẽ đóng góp từ 600 tỷ tới 1.3 nghìn tỷ USD cho nền kinh tế Mỹ vào năm 2025.

Được biết đến từ lâu như một công ty luôn đi đầu trong việc thúc đẩy sự phát triển của IoT, nhưng những nỗ lực của Google trong việc đưa các thiết bị kết nối Internet vào từng hộ gia đình lại không mấy thành công. Gã khổng lồ công nghệ từng gặp phải sự lạnh nhạt của khách hàng khi ra mắt Google TV do không đáp ứng đúng nhu cầu thị trường, hay những thiết bị như Google Chromecast cũng chỉ đạt được những thành công rất khiêm tốn. Bất chấp việc hỗ trợ đưa nền tảng Android vào các thiết bị gia dụng đang dần mang lại hiệu quả, Google chưa bao giờ là kẻ thống lĩnh thị trường trong mảng này.

Với thương vụ 3.2 tỷ USD để thâu tóm lại Nest Labs, Google kỳ vọng sẽ có một chỗ đứng vững chắc hơn trong ngành. Google hoàn toàn có thể tận dụng sức mạnh và năng lực kỹ thuật của Nest, kết hợp với tiềm lực hùng hậu của mình để phát triển thế hệ tiếp theo của các thiết bị gia dụng kết nối Internet, đẩy nhanh quá trình phổ biến IoT. Giống như những gì đã làm được với các thiết bị điện toán di động khi thâu tóm Android, với Nest, Google sẽ có bước nhảy vọt về khả năng cạnh tranh, trở thành người đi đầu nắm giữ nhiều lợi thế trong thị trường IoT, giúp công ty chiếm được thị phần lớn hơn trong miếng bánh 600 tỷ USD đầy béo bở.

Tuy vậy, cũng tồn tại không ít lo ngại về thương vụ này, chủ yếu liên quan đến việc xâm phạm quyền riêng tư của người dùng. Hoặc mới gần đây là việc Google phải thu  hồi hàng ngàn thiết bị báo cháy Nest Protect do vấn đề lỗi kỹ thuật. Về vấn đề riêng tư, không ít đối thủ đã lên tiếng cảnh báo các thiết bị như Nest Learning Thermostats hay Nest Protect có khả năng thu thập thông tin về thói quen của người dùng, và Google sẽ có thể sử dụng những thông tin đó để gây ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng, hay thậm chí là điều chỉnh lối sống của người sử dụng.  Tuy vẫn còn quá sớm để dự báo về tương lai phát triển của Nest Labs dưới sự quản lý của Google, nhưng những cảnh báo này không phải là không có cơ sở, đặc biệt là trong bối cảnh những lo ngại dâng cao về việc những công ty như Google đã và đang nắm giữ quá nhiều thông tin cá nhân của người dùng.

[Technology] Đại học Harvard phát triển thành công phương pháp dùng laser để kích thích quá trình phục hồi răng

Dentist-pt-google-img. ​


Trong một nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí Science Translational Medicine, các nhà khoa học tại Đại học Harvard đã giới thiệu phương pháp dùng tia laser năng lượng thấp để kích hoạt các tế bào gốc bên trong răng từ đó hình thành nên ngà răng – một thành phần hết sức quan trọng của răng. Sự thành công của phương pháp này có thể giúp phục hồi răng cho những người đã bị tổn thương răng vĩnh viễn mà không cần nhổ bỏ và sử dụng răng giả để thay thế.

“Răng không mọc lại!”, đó là những gì mà nha sĩ nói khi bạn quyết định phải nhổ đi chiếc răng vĩnh viễn vì một lý do nào đó. Nhưng giờ đây, các nhà khoa học đã tìm được cách tự nhiên để tạo nên ngà răng. Đây là cấu trúc quan trọng nhất của răng đã được vôi hóa, có chứa các tế bào sống giống như xương cững. Phương pháp phục hồi răng do các nhà nghiên cứu đề xuất dựa trên một thủ thuật khá đơn giản và dễ thực hiện: khoan 2 lỗ vào răng đã hỏng và bắn tia laser vào bên trong để kích thích sự phát triển của tế bào gốc.

Trong những nghiên cứu khác được thực hiện gần đây, các bác sĩ da liễu đã báo cáo về khả năng của tia laser trong việc kích thích da và tóc phát triển. Từ đó, các nhà nghiên cứu phát hiện thêm rằng tia laser cũng có thể kích thích các hoạt động sinh học khác bên trong tế bào, và một trong số đó chính là sự hình thành nên ngà răng. Theo đó, vụ nổ do laser năng lượng thấp sẽ tạo nên một dạng phản ứng ôxy hóa và tạo ra các sản phẩm có thể kích thích sự tăng trưởng của ngà răng.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng phương pháp này chỉ tạo nên được ngà răng theo cách tự nhiên bên dưới lớp men và các tế bào tạo men răng sẽ bị mất đi khi răng mọc lên trong miệng. Do đó, quá trình phục hồi vẫn cần phải bổ sung thêm men răng bao quanh ngà răng để hình thành nên một chiếc răng hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng cho biết thêm rằng quá trình phục hồi không bao gồm các tủy máu bên trong răng. Tuy nhiên, khi ngà răng được phục hồi, chiếc răng sẽ có đủ độ cứng để thực hiện các chức năng nhai bình thường dù không hoàn hảo như răng thật.

Trước đây, các nhà nghiên cứu đã có thể tạo ra những thành phần của răng từ tế bào gốc trong phòng thí nghiệm, nhưng đây là lần đầu tiên có thể kích thích sự tăng trưởng của ngà răng ngay trong miệng của sinh vật sống. Hiện tại, các tác giả của nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm thành công trên một số loài gặm nhấm nhỏ. Bước tiếp theo, các nhà nghiên cứu sẽ tiếp tục thử nghiệm lâm sàng ngay trên cơ thể người với hy vọng rằng một ngày nào đó, đây sẽ là một phương pháp tái tạo răng được áp dụng rộng rãi nhằm thay thế cho phương pháp cấy ghép răng nhân tạo vẫn được áp dụng từ trước đến nay.

[Technology] Chiếc xe nhanh nhất thế giới được thiết kế như thế nào?

Cách đây 100 năm, tay đua Lydston Hornsted cùng với chiếc xe Benz No.3 đã phá vỡ kỷ lục tốc độ của một chiếc xe di chuyển trên mặt đất với vận tốc 229 km/h. Đến năm 1997, chiếc xe đua với thiết kế vô cùng đặc biệt Thrust SSC của tay đua Andy Green đã vượt qua vận tốc siêu âm và đạt mức 1200 km/h.

Chiếc xe nhanh nhất thế giới được thiết kế như thế nào?

Không dừng lại ở đó, các nhà thiết kế vẫn nghiên cứu và chế tạo những chiếc xe chạy với vận tốc siêu nhanh, phá vỡ mọi rào cản về vận tốc của một chiếc xe chạy trên mặt đất. Để có thể đạt đến vận tốc siêu âm hoặc vượt âm, những chiếc xe phải có thiết kế vô cùng đặc biệt. Trong bài viết này chúng ta sẽ tìm hiểu xem những nhà thiết kế đã làm thế nào để một chiếc xe có thể đạt vận tốc 1600 km/h.

Câu hỏi đầu tiên được đặt ra đối với một chiếc xe đạt vận tốc siêu âm là “làm thế nào để giữ chiếc xe ở trên mặt đất”. Điều này vô cùng quan trọng, bởi khi đạt vận tốc siêu âm lên tới hơn 1600 km/h, một chiếc xe có thể “bay” khỏi mặt đất. Năm 1967, tay đua Donald Campbell đã gặp phải một tai nạn kinh hoàng khi lái thử một chiếc tàu siêu tốc. Khi đạt đến vận tốc cực cao, chiếc tàu bị “bay” khỏi mặt nước và lộn nhào.

Tai nạn của tay đua Donald Campbell năm 1967.

Động cơ phản lực

Ban đầu, những chiếc “siêu” xe này được trang bị động cơ đốt trong sử dụng piston, chạy bằng xăng hoặc dầu diesel, tuy nhiên những chiếc xe sử dụng các loại động cơ truyền thống chỉ có thể đạt vận tốc tối đa 400 km/h.

Chiếc xe nhanh nhất thế giới được thiết kế như thế nào?

Để có thể đẩy vận tốc lên mức siêu âm, những chiếc xe cần nhiều năng lượng hơn nữa. Các nhà thiết kế bắt đầu thử nghiệm các loại động cơ phản lực và động cơ tên lửa. Khi đã có thể đạt đến vận tốc cao hơn, lực cản của không khí trở thành một vấn đề lớn cần giải quyết. Lúc này, thiết kế động lực học của chiếc xe trở thành một phần vô cùng quan trọng.

Bloodhound được trang bị động cơ phản lực EJ200 của máy bay chiến đấu Eurofighter-Typhoon kết hợp cùng một tên lửa đẩy Falcon cho công suất 133.000 mã lực. Với lực đẩy 90kN tạo ra bởi động cơ EJ200 cộng với lực đẩy 212kN (tương đương 180 chiếc xe F1) từ tên lửa Falcon thì nhóm thực hiện dự án tính toán xe có thể tăng tốc từ 0 đến 1000 dặm/h chỉ trong 42 giây.

Thiết kế khí động lực học

Khí động lực học nghiên cứu sự di chuyển của các dòng chảy không khí qua các vật di chuyển và lực cản mà không khí tác động lên chúng. Việc tính toán khí động lực học vô cùng phức tạp và gặp rất nhiều khó khăn cho đến khi các siêu máy tính ra đời, có khả năng thay thế con người. Trong một vài thập kỷ trước đây, việc nghiên cứu khí động lực học được tiến hành trong các hầm thí nghiệm với những cỗ máy tạo gió khổng lồ.

Bloodhound CFD dòng chảy trực quan

Mô phỏng khí động lực học trên máy tính.

Tuy nhiên bây giờ các nhà khoa học đã có thể lập trình và tính toán với các mô hình mô phỏng trên máy tính. Lúc này, việc giữ được mũi xe không bị nhấc lên khỏi mặt đất không còn là vấn đề lớn, khi mà các nhà thiết kế có thể tính toán cân bằng dòng chảy phía trên và phía dưới của mũi xe. Lúc này, việc giữ cho phần đuôi xe không bị “bay” trở thành một vấn đề nan giải hơn. Để giải quyết vấn đề này, các bánh xe được làm lớn hơn và nằm bên ngoài thân xe giúp giải phóng luồng khí di chuyển qua các bánh xe.

Bên cạnh đó, thiết kế thống treo bánh xe đặc biệt theo kiểu “delta fairing” góp phần giải quyết các vấn đề khí động lực học, giúp chiếc xe không bị “bay” khỏi mặt đất. Bánh xe được làm đặc để luồng không khí không thể đi qua, bên cạnh đó hai bánh xe sau còn được lắp một phần cản gió với thiết kế đặc biệt để phân tàn luồng không khí.

Dòng chảy phức tạp hạ lưu của Bloodhound phanh

Thiết kế này giúp loại trừ các lực nâng từ đệm khí hình thành khi chiếc xe đạt vận tốc siêu âm. Nếu như không có thiết kế hệ thống treo này, một lực nâng rất lớn sẽ khiến chiếc xe bị nhấc khỏi mặt đất khi đạt vận tốc cận âm Mach 0,9.

Việc thiết kế vị trí lắp đặt của động cơ tên lửa EJ200 cũng gặp nhiều khó khăn, ban đầu các nhà thiết kế lắp đặt hai động cơ phản lực bên thân xe tuy nhiên vẫn không đảm bảo tính động lực học. Sau đó, các nhà thiết kế quyết định chỉ sử dụng một động cơ đặt trên thân xe, phía trên tán buồng lái.

Thiết kế phát triển của Bloodhound

Thiết kế thay đổi của chiếc xe từ năm 2007 đến nay.

Thiết kế của thân xe cũng thay đổi rất nhiều so với những chiếc xe thông thường, thu gọn bề ngang và chỉ sử dụng một chỗ ngồi cũng như hình dáng mũi tên góp phần giảm lực cản của không khí lên chiếc xe. Từ năm 2007 đến nay, thiết kế của chiếc xe đã trải qua hơn 12 mô hình điều chỉnh về thiết kế. Mỗi mô hình đều được thử nghiệm mô phỏng khí động lực học trên máy tính để tìm ra được thiết kế tối ưu nhất.

Sau những cải tiến về thiết kế, chiếc “siêu” xe Bloohound đã khá hoàn thiện, tuy nhiên hóm thiết kế vẫn chưa dừng lại ở đó. Dự kiến quá trình thử nghiệm Bloodhound SSC sẽ được tiến hành tại Anh quốc vào đầu năm tới, trước khi chiếc xe có thể thực hiện màn lập kỷ lục vào năm 2015 tại Nam Phi trên một sa mạc rộng hơn 3 km và dài khoảng 19 km.

[Technology] Lịch sử 400 năm hình thành và phát triển của pin

banner. ​


Pin là nguồn năng lượng thông dụng cho nhiều thiết bị cá nhân, gia dụng cho đến các ứng dụng công nghiệp. Có nhiều chủng loại, kích thước pin khác nhau tương ứng với rất nhiều thiết bị tiêu thụ điện từ đồng hồ đeo tay, đồ chơi trẻ em, điện thoại di động, máy tính bảng đến pin cỡ lớn dùng cho xe điện,… Pin đã, đang và sẽ là một công cụ lưu trữ năng lượng được sử dụng phổ biến không chỉ trong hiện tại mà còn nhiều năm nữa trong tương lai. Chuyên mục “Mỗi tuần 1 phát minh” lần này sẽ cùng các bạn tìm hiểu các câu hỏi đặt ra xung quanh loại thiết bị quen thuộc và quan trọng nói trên: Pin được chế tạo lần đầu tiên khi nào? Ai đã phát minh ra pin? Pin sạc có từ bao giờ?…

Tóm tắt các cột mốc quan trọng có liên quan mật thiết đến quá trình phát triển của pin

Screen Shot 2014-05-19 at 17.18.47.


Pin được phát minh khi nào? 400 năm hay hơn 2000 năm trước?

Một trong những phát minh vĩ đại và đáng chú ý nhất của con người trong 400 năm qua chính là điện. Những dòng điện đầu tiên có thể được tạo ra trước đó, nhưng mãi đến cuối những năm 1800 thì nhân loại mới chứng kiến được những ứng dụng cụ thể của điện. Đó là 250.000 bóng đèn dây tóc thắp sáng Triễn lãm tiêu dùng tại Chicago, Mỹ năm 1893 hay làm một cây cầu bắt qua sông Seine, Paris phát sáng tại Hội chợ thế giới năm 1900.

Tuy nhiên, những dòng điện đầu tiên đã được con người tạo ra từ nhiều năm trước đó. Vào năm 1963, trong quá trình xây dựng tuyến đường sắt gần Baghdad, những công nhân đã phát hiện ra những “viên pin của người Parthian” có niên đại lên tới 2000 năm nằm trong một hầm mộ cổ. Đây là những viên pin xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người do bàn tay chế tạo của những người Parthian, một dân tộc miền Bắc Ba Tư.

PARTHIAN. ​


Trong số những di tích được tìm thấy trong lăng mộ, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một cái vại hoặc bình bằng đất sét chứa đầy giấm với một thanh sắt cắm vào chính giữa sau đó niêm phong kính miệng bình. Xung quanh thanh sắt được bao bọc bởi ống quấn bằng các tấm đồng. Mỗi bình có chiều cao khoảng 15 cm, ống đồng có đường kính khoảng 4 cm và dài 12 cm. Sau khi dựng lại và thử nghiệm với một phiên bản tương tự, các nhà khoa học đã nhận thấy rằng “bình pin” có khả năng tạo ra dòng điện từ 1,5 đến 2 V giữa trụ sắt và tấm đồng.

Qua đó, các nhà khoa học đã dự đoán rằng những người Parthian cổ đại đã sử dụng các công cụ tạo ra dòng điện để mạ vàng và bạc vào những vật dụng từ những năm 250 trước công nguyên. Nhiều nhà khoa học cho rằng người Parthian chỉ sử dụng các công cụ trên cho mục đích mạ chứ chưa nhìn nhận nó như một nguồn năng lượng. Nhiều bằng chứng khảo cổ khác cho thấy những người Ai Cập cổ đại cũng đã biết mạ antimon lên các vật dụng bằng đồng từ hơn 4300 năm trước. Các di tích khảo cổ khác cũng cho thấy những người Babylon cũng đã khám phá và sử dụng kỹ thuật dùng nước ép nho như một chất điện phân để mạ vàng lên đồ trang sức.

1786 – Cặp chân nhái đã chết nhưng biết cử động!

luigi-galvani-experimenting.
giáo sư Cơ thể học Luigi Galvani (1737-1798) với phát hiện đâm que sắt vào chân nhái đặt trên bàn kim loại khiến chân nhái co giật​


Năm 1786, trong khi thực hiện một bài giảng, giáo sư Cơ thể học Luigi Galvani (1737-1798) tại trường Đại học Bologne, Italy, đã dùng một thanh kim loại đâm vào một con nhái đã lột da. Do tình cơ con nhái được đặt trên mặt bàn bằng kim loại, chân con nhái có hiện tượng co giật lại. Galvani đã rất ngạc nhiên với hiện tượng này và sau vài ngày tìm hiểu, ồn đã nhận ra rằng chân nhái co giật khi đầu thanh kim loại đâm vào và chạm tới mặt bàn kim loại bên dưới.

Một ngày khác, Galvani đã dùng một móc đồng phơi đôi chân nhái phía trên một thanh sắt ngoài ban công. Galvani đã nhận thấy rằng khi gió thổi khiến đôi chân nhái đung đưa chạm vào thanh sắt và ngay tức khắc, chân nhái sẽ bị co giật. Ông suy nghĩ để cố lý giải cho hiện tượng kỳ lạ này và một ý tưởng đã lóe lên trong đầu ông: điện. Galvani kết luận rằng điện có trong khắp mọi vật và có trong cả đôi chân nhái. Ông đặt tên cho loại điện này là “điện của sinh vật” và công bố phát hiện của mình trên một bài báo khiến cho giới khoa học gia châu Âu hết sức sửng sốt với loại điện mới này.

Ngày nay, chúng ta đều biết rằng Galvani đã nhầm lẫn khi cho rằng đó là điện của sinh vật và ông chỉ dừng lại ở hiện tượng mà không tìm hiểu nguyên nhân sinh ra điện. Tuy nhiên, phát hiện trên của Galvani đã tiến rất gần tới những nguyên lý mở đường cho việc chế tạo pin sau này.


“Pin Volta” – Pin đầu tiên của nhân loại ra đời vào năm 1800

volta.
Alessandro Volta (1745-1827) là giáo sư vật lý tại Đại học Pavie, Italy, cha đẻ của pin​


Alessandro Volta (1745-1827) là giáo sư vật lý tại Đại học Pavie, Italy. Trước đó, Volta đã có nhiều nghiên cứu nhằm tăng cường tính điện của chai Laiden. Trước đó, ông đã đề xuất mô hình “súng lục bắn điện” nhằm thực hiện liên lạc đường dài. “Khẩu súng luc điện” được nối với một sợi dây sắt được đặt trên các cọc gỗ kéo dài từ Milan đến Como, Italy. Đầu cuối của dây sắt được nối với một chai chứa đầy khí mê tan. Khi muốn gởi một thông điệp được mã hóa, “súng lục điện” sẽ “bắn” một tia lửa điện và người nhận sẽ “đọc” được các thông điệp trên chai chứa mê tan. Dù vậy, mô hình của ông không hề được chế tạo thực sự.

Từ khi Galvani phổ biến các phát hiện của mình về “điện của sinh vật” vào năm 1791, tại nhiều phòng thí nghiệm lớn tại châu Âu, hàng loạt các nhà khoa học đã thực hiện các thí nghiệm với đôi chân nhái của Galvani. Có người đã nối đôi chân nhái với chai Leiden (hình thái đầu tiên của tụ điện, một chai thủy tinh tích trữ tĩnh điện giữa 2 điện cực bên trong và bên ngoài chai) và nhận thấy rằng đôi chân nhái có sự co giật dữ dội. Với thí nghiệm trên, các nhà khoa học bắt đầu nghi ngờ về giả thuyết “điện sinh vật” của Galvani. Trong số những người phản đối giả thuyết có Alessandro Volta.

Đối với thí nghiệm chân nhái , Volta không quan tâm đến hiện tượng co giật đơn thuần, sâu xa hơn, ông cố gắng tìm hiểu nguồn điện đã sinh ra từ đâu để làm chân nhái có thể co giật. Volta nhận thấy rằng chân nhái chỉ co giật khi có sự tiếp xúc của 2 kim loại khác nhau. Sau khi tiếp tục nghiên cứu, Volta phát hiện thêm rằng điện sinh ra do phản ứng hóa học và hiện tượng co giật của chân ếch chỉ xảy ra khi 2 kim loại khác nhau tiếp xúc trong một dung dịch muối. Cụ thể, dung dịch muối tồn tại bên trong cơ thịt của chân nhái.

mo_hinh_pin_volta.
Mô hình pin của Volta​


Tiếp tục nghiên cứu, năm 1800, Volta đã thực hiện một loạt các thử nghiệm dùng kẽm, chì, thiếc và sắt làm tấm tích điện âm (cathode); và đồng, bạc, vàng, than chì như một tấm tích điện dương (anode). Sau đó, ông xếp các tấm trái cực xen kẽ với nhau, ngăn cách bởi miếng giấy xốp tẩm dung dịch muối ăn. Cuối cùng, ông nối điểm đầu với điểm cuối với một sợi dây dẫn và nhận thấy có 1 dòng điện chạy qua. Đây chính là viên pin đầu tiên của nhân loại được mang tên là “pin Volta”. Sở dĩ danh từ pin hay chính xác hơn là pile được đặt cho thiết bị này chính là do đây là 1 chồng các miếng tròn bằng đồng và kẽm có hình dáng như một chiếc cọc.

450px-VoltaBattery.
Mô hình pin đầu tiên của Volta còn được bảo tồn đến ngày nay​


Cũng trong năm 1800, Volta đã công bố phát hiện của ông về một nguồn cấp điện ổn định trước Hội đồng khoa học Hoàng Gia tại London trước sự chứng kiến và thán phục của nhiều nhà khoa học từ khắp châu Âu. Với phát minh này đã giúp tên tuổi của Volta lừng lẫy khắp nơi và được ghi nhận là người có đóng góp to lớn cho sự phát triển của nhân loại.

volta2.
Hình ảnh Volta đang thực hiện thí nghiệm với sự theo dõi trực tiếp của hoàng đế nước Pháp Napoleon Bonaparte.​


Tuy nhiên, Pháp mới là quốc gia đầu tiên công nhận phát minh của Volta do trong giai đoạn bấy giờ, nước Pháp đang cố gắng tiếp cận với nhiều tiến bộ của khoa học kỹ thuật nên sẵn sàng đón nhận bất cứ ý tưởng mới nào được đề xuất. Không lâu sau đó, Volta được mời tới Pháp và giảng dạy tại Viện hàn lâm khoa học Pháp về các nghiên cứu điện học của ông. Thậm chí trong nhiều bài giảng của ông có sự theo dõi của Napoleon Bonaparte.

26.4-Humphry-Davy.
Nhà vật lý và hóa học người Cornwall, vương quốc Anh, Humphry Davy (1778-1829) cùng mô hình pin.​


Trong cùng năm 1800, nhà vật lý và hóa học người Cornwall, vương quốc Anh, Humphry Davy (1778-1829) đã bắt đầu thử nghiệm các tác dụng hóa học của dòng điện và phát hiện ra rằng dòng điện có khả năng tách các chất trong dung dịch mà ngày nay chúng ta biết đó là sự điện phân. Dựa trên mô hình của Volta, Davy đã chế tạo ra pin điện lớn nhất và mạnh nhất tính đến thời điểm bấy giờ tại tầng hầm của Viện khoa học Hoàng gia Anh. Những nhân chứng đã kể lại rằng mô hình pin của ông đã làm một chiếc đèn hồ quang điện chat sáng rực rỡ chưa từng thấy. Ngoài ra, Davy cũng là người nổi tiếng với việc phát hiện ra khí gây cười N2O hay đèn mỏ an toàn.

cruick.
Nhà hóa học người Anh, William Cruickshank với thiết kế mô hình pin đầu tiên có thể sản xuất dưới quy mô công nghiệp​


2 năm sau đó, vào năm 1802, nhà hóa học người Anh, William Cruickshank thiết kế mô hình pin đầu tiên có thể sản xuất dưới quy mô công nghiệp. Cruickshank đã đề xuất phương pháp dùng các tấm kẽm và đồng có cùng kích thước, xếp xen kẽ với nhau, đặt vào một hộp gỗ dài hình chữ nhật và dán chặt lại. Bên trong hộp có các rãnh để giữ cố định các tấm kim loại và chứa nước đầy nước muối hoặc acid pha loãng để làm chất điện phân. Thiết kế này có ưu điểm so với mô hình ban đầu của Volta là không bị khô và có thể cung cấp được dòng điện mạnh hơn. Mô hình pin của Cruickshank giống như pin ướt mà chúng ta vẫn còn sử dụng cho đến ngày nay.

Từ pin có thể sạc được, pin ướt cho đến pin khô

pin_sac_dau_tien.
Pin ướt có thể sạc được của nhà vật lý người Pháp Gaston Planté


Vào năm 1836, nhà hóa học người Anh, John F. Daniell đã phát triển một phiên bản pin hoàn thiện hơn với hiệu suất được cải thiện và tạo ra dòng điện ổn định hơn so với nguyên bản ban đầu của Volta hay Cruickshank. Tuy nhiên, cho tới thời điểm bấy giờ thì toàn bộ đều là pin sơ cấp, nghĩa là chỉ dùng được 1 lần và không thể sạc để tái sử dụng được. Đến năm 1859, nhà vật lý người Pháp Gaston Planté phát minh ra pin sạc đầu tiên. Đó là một pin với các tấm chì ngăn cách nhau bởi tấm vải flannel và được đặt trong acid sunfuric loãng. Pin sẽ được sạc lại bằng cách châm thêm acid vào để tái sử dụng. Mô hình này vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay dưới tên gọi pin ướt hoặc ắc quy ướt (bình ướt) hoặc pin carbon zinc

leclanche. leclanche1.
Kỹ sư người Pháp Georges Leclanché (1839-1882) và mô hình pin của ông.​


Năm 1866 tại Pháp, kỹ sư Georges Leclanché (1839-1882) đã chế tạo pin ướt với các điện cực ngâm mình trong dung dịch điện phân. Tuy nhiên không lâu sau đó, ông đưa ra sáng kiến cải thiện pin bằng cách dùng dung dịch hồ amoni chloride sau đó niêm phong pin lại. Sáng kiến này đánh dấu sự ra đời của thế hệ pin khô. Thế hệ pin mới cho phép pin được sử dụng ở nhiều vị trí khác nhau, chịu được di chuyển dao động mạnh mà không sợ dung dịch điện phân bị tràn ra ngoài như pin ướt. Thêm vào đó, pin cũng được chế tạo thành dạng ống hoặc hình hộp bên trong chứa các bộ phận khác của pin như các cực dương làm bằng kẽm (anode) và cực âm gồm mangan dioxide và carbon theo tỷ lệ 8:1 (cathode). Hồ điện cực còn có thể chứa thêm kẽm chloride.

Năm 1881, Camille Faure chế tạo pin dùng các dải cọc chì oxit làm điện cực để thay thế cho các tấm chì trong pin ướt trước đây. Điều này cho phép tạo ra dòng điện mạnh và ổn định hơn rất nhiều. Đây chính là cơ sở cho sự phát triển của pin ướt sau này với nhiều loại điện cực khác nhau.


Đến năm 1899, nhà khoa học Waldemar Jungner đến từ Thụy Điển đã phát minh ra pin nickel-cadimi (NiCd). Đây là thế hệ pin dùng nickel làm cực âm (cathode) và cadimi làm cực dương (anode). Tuy nhiên, do chi phí chế tạo khá cao nên pin NiCd không được áp dụng rộng rãi cho nhiều người sử dụng. 2 năm sau đó, nhà phát minh nổi tiếng Thomas Edison đã phát triển mô hình pin khác bằng cách dùng sắt để thay thế Cadimi làm anode giúp giảm giá thành nguyên vật liệu sản xuất pin. Dù vậy, mô hình pin Nikel-Sắt của Edison đã gặp phải các nhược điểm nghiêm trọng: năng lượng yếu, hiệu suất kém ở nhiệt độ thấp và khả năng tự xả cao. Tất cả các nhược điểm trên khiến pin của Edison cũng không được đưa vào sản xuất và sử dụng rộng rãi.

Mãi cho tới năm 1932, Shlecht và Ackermann đã đạt được thành công trong việc cải tiến pin NiCd với dòng điện mạnh và tuổi thọ cao. Giải pháp cải tiến của 2 nhà phát minh là trang bị thêm những tấm vách ngăn các điện cực thành nhiều khoang. Năm 1947, George Neumann tiếp tục hoàn thiện mô hình trên thông qua việc chế tạo thế hệ pin NiCd với nhiều vách ngăn bên trong được hàn kín lại.

seven-batteries.
Pin NiMH quen thuộc với tất cả chúng ta ngày nay​


Nhiều năm sau đó, pin NiCd tiếp tục là loại pin duy nhất có thể sạc và di chuyển được. Vào những năm 1990, vấn đề môi trường được quan tâm hàng đầu tại châu Âu và các nhà khoa học bắt đầu chú ý đến pin NiCd do khả năng xử lý các hóa chất độc hại sau quá trình sử dụng. Các đạo luật được ban hành nhằm hạn chế việc sử dụng các nguyên tố này và chuyển sang sử dụng pin Nickel-Sắt Hydrid (NiMH) thân thiện với môi trường hơn. Dù vậy, tương tự như pin NiCd, pin NiMH vẫn chưa thật sự đạt được hiệu quả như mong đợi và các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục phát triển nên một thế hệ pin ưu việt hơn. Đây chính là bàn đạp tạo tiền đề cho sự ra đời của pin lithium-ion (Li-ion).

Pin Li-ion ra đời và phát triển cho đến ngày nay

stanley.
Nhà hóa học người Mỹ Michael Stanley Whittingham, người đầu tiên đề xuất ý tưởng pin Li-ion​


Pin Li-ion đầu tiên được đề xuất vào những năm 1970 bởi nhà hóa học người Mỹ Michael Stanley Whittingham (1941) đến từ Đại học Binghamton sử dụng titanium sunfide và kim loại liti thuần làm các điện cực. Dù vậy, do Liti là một kim loại hoạt động mạnh nên khi tiếp xúc với không khí dễ dàng xảy ra các phản ứng hóa học gây nguy hiểm. Chính vì vậy, mô hình pin dùng liti thuần làm cực dương đã không được chấp nhận. Cùng thời gian này, J. O. Besenhard tại Đại học Munich đã phát hiện ra tính chất trao đổi ion thuận nghịch giữa than chì và cathode bằng oxit kim loại.

Tiếp theo vào năm 1979 tại Đại học Oxford, John Goodenough và Koichi Mizushima đã chế tạo một loại pin sạc tạo ra dòng khoảng 4 V sử dụng Liti Cobalt Oxit (LiCoO2) làm cực dương và liti thuần làm cực âm. LiCoO2 là một chất dẫn điện tích điện dương với tính ổn định cao nên có thể cung cấp các ion liti nhằm tạo ra dòng điện. Khả năng này đã mở ra triển vọng sử dụng LiCoO2 làm cực dương cho các thế hệ pin hoàn toàn mới có thể sạc lại một cách dễ dàng.

Năm 1977, Samar Basu đến từ đại học Pennsylvania đã chứng minh tính khả thi của việc chế tạo và sử dụng pin điện hóa với các điện cực bằng liti và than chì. Không lâu sau đó, mô hình này đã chính thức được chế tạo bởi các kỹ sư tại phòng thí nghiệm Bell (hiện nay là phòng thí nghiệm AT&T).

565px-Rachid_Yazami_2011.
Rachid Yazami, người chứng minh tính điện hóa thuận nghịch của liti trong than chì​


Vào năm 1980, Rachid Yazami tiếp tục chứng minh tính điện hóa thuận nghịch của liti trong than chì. Dù vậy, các chất hữu cơ dùng làm chất điện phân trong thế hệ pin mới này bị phân hủy trong quá trình sạc. Do đó, Yazami đã đề xuất hỗn hợp chất hữu cơ rắn bền vững trong quá trình sạc làm chất điện phân. Mô hình chất điện phân của Yazami vẫn còn sử dụng trong các thế hệ pin Li-ion cho đến hiện nay.

Đến năm 1983, Michael M. Thackeray, Goodnewa và các cộng sự đã xác định có thể dùng khoáng chất Mangan Spinen để chế tạo cực dương cho pin Li-ion. Đây là loại khoáng chất có tính dẫn điện tốt, giá thành rẻ và hoạt động ổn định. Tuy vẫn còn nhược điểm là bị tiêu hao dần trong quá trình sạc nhưng vẫn có thể khắc phục bằng các biện pháp chỉnh sửa hóa học. Cho đến năm 2013, Mangan Spinen vẫn tiếp tục được sử dụng cho các thế hệ pin Li-ion thương mại.

nguyen_ly_pin_li-ion.
Sơ đồ nguyên lý hoạt động của pin Li-ion​


Vào năm 1985, Akira Yoshino lắp ráp mô hình pin đầu tiên dựa trên tất cả các yếu tố thành công từ trước, sử dụng vậy liệu cacbonate giúp giữ các ion liti trong 1 điện cực giúp LiCoO2 bền vững trong không khí hơn. Chính vì lý do này, thế hệ pin Li-ion đã được hoàn thiện và an toàn hơn rất nhiều so với trước đây.

battery.
Viên pin Li-ion này có quen thuộc với các bạn không?​


Năm 1991, tập đoàn điện tử Sony chính thức thương mại hóa pin Li-ion dưới quy mô sản xuất công nghiệp. Cho đến nay, hầu hết các hoạt động nghiên cứu đều xoay quanh việc cải thiện hiệu suất của pin Li-on. Bên cạnh việc cung cấp năng lượng cho điện thoại di động, máy tính xách tay, máy ảnh kỹ thuật số, dụng cụ điện và các thiết bị y tế, pin Li-ion hiện nay còn được sử dụng cho xe điện. Đây là thế hệ pin đáng chú ý nhất tính đến thời điểm hiện tại do có mức lưu trữ năng lượng cụ thể, thiết kế đơn giản, hiệu suất cao, cho dòng ổn định, chi phí bảo trì thấp và khá thân thiện với môi trường.

Tiếp theo đó là sự kiện công ty Bellcore chính thức thương mại hóa pin Li-ion Polymer vào năm 1994 sau quá trình nghiên cứu. Bước tiếp theo là pin sự xuất hiện của pin li-ion với cathode bằng mangan, pin li-phosphate được các nhà khoa học liên tục cải tiến và hoàn thiện để chính thức thương mại hóa. Các nhà khoa học dự đoán tiếp theo sẽ là sự ra đời của những thế hệ pin phát triển dựa trên tiến bộ của công nghệ nano giúp tăng cường hiệu suất cũng như kích thước và tuổi thọ của pin.